Kính gửi Văn phòng luật Phan Law Vietnam, tôi có một vấn đề mong nhận được giải đáp từ Quý công ty như sau:
Tôi chuẩn bị ly hôn với chồng tôi. Trong thời gian đầu mới cưới 2 vợ chồng tôi có mua 1 chiếc xe máy trả góp. Ban đầu là bên mẹ tôi có cho chồng tôi mượn 10 triệu và bên nhà chồng cho mượn 6 triệu để mua. Và mỗi tháng phải góp tiền hàng tháng là 2 triệu đồng. Phần nợ bên nhà chồng chúng tôi đã trả hết. Nhưng số nợ của mẹ tôi chồng tôi chưa trả. Bây giờ, tôi muốn hỏi khi ly hôn tôi có phải trả góp tiền hàng tháng cùng với chồng tôi nữa không? Hiện giờ xe máy đó đứng tên chồng tôi và chồng tôi đang sử dụng. Tôi có thể đòi chồng tôi chu cấp tiền nuôi con hàng tháng được không?
Xin chân thành cảm ơn!
Xem thêm:
>> Con có nghĩa vụ trả nợ thay cha mẹ đang vay ngân hàng mà qua đời hay không?
>> Làm mất giấy đăng ký kết hôn có ly hôn được không?
>> Trong thời kỳ hôn nhân vợ/chồng có được thỏa thuận phân chia tài sản chung?
Nghĩa vụ trả nợ chung sau khi ly hôn theo luật như thế nào?
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng để chia sẻ thắc mắc của mình đến Phan Law Vietnam. Đối với trường hợp mà bạn đang gặp phải, chúng tôi xin phép được giải đáp thắc mắc và tư vấn dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành như sau:
Quy định về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Các khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân mà đến nay anh chị vẫn chưa trả xong thì pháp luật vẫn xác định đó là nghĩa vụ chung của anh chị. Khi anh chị ly hôn, mỗi người có nghĩa vụ thanh toán một nửa số nợ trên. Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
– Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
– Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Chiếc xe máy trả góp của anh chị được xây dựng trong thời kỳ hôn nhân nên nó được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Về mặt pháp lý, sau khi ly hôn, anh, chị không còn là vợ chồng của nhau nữa nhưng những tài sản mà anh, chị yêu cầu tòa án giải quyết và kể cả các khoản nợ được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn được hiểu là tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng nên việc chia tài sản chung sau ly hôn cũng áp dụng tương tự các quy định của pháp luật như chia tài sản khi ly hôn.
Chia tài sản chung sau khi ly hôn
Theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc chia tài sản phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Vậy đối với các khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân mà đến nay anh, chị vẫn chưa trả xong thì pháp luật vẫn xác định đó là nghĩa vụ chung của anh chị. Nên mỗi người phải có nghĩa vụ thanh toán một nửa số nợ trả góp đó.
Cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng sau khi ly hôn
Khi anh chị ly hôn, chị có thể yêu cầu chồng chị cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trên đây là tư vấn của Phan Law Vietnam xin được thông tin đến quý khách. Nếu còn vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ thông tin dưới đây để có thể được giải đáp nhanh nhất.
PHAN LAW VIETNAM
Hotline: 0794.80.8888 –Email: info@phan.vn
Liên hệ Văn phòng Luật Sư