Chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng gồm có tài sản chung và tài sản riêng. Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng là các loại tài sản mà cả hai vợ chồng cùng tạo ra hoặc là thu nhập từ lao động, sản xuất, kinh doanh, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi người, trong thời kỳ hôn nhân.
Đồng thời, tài sản chung còn là những tài sản được thừa kế hoặc tặng cho cả hai và bất kỳ tài sản nào mà cả hai vợ chồng đã thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng được coi là sở hữu chung hợp nhất và được sử dụng để đảm bảo nhu cầu của gia đình và thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Theo chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản chung thường được chia đôi, nhưng có tính đến 04 yếu tố quan trọng sau:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Trên thực tế, khi có tranh chấp xảy ra, trong trường hợp vợ, chồng không có bằng chứng để xác định rõ ràng xem một tài sản tranh chấp là tài sản riêng của mình, thì tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung của cả hai vợ chồng.
Quyền sử dụng đất là tài sản chung
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được, sau khi kết hôn, được coi là tài sản chung của cả hai, trừ khi tài sản này được thừa kế, tặng cho riêng hoặc được đạt được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng của một trong hai bên.
Trường hợp được thừa kế, tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, thì vợ, chồng có trách nhiệm chứng minh. Nếu không chứng minh được, quyền sử dụng đất có được trong thời kỳ hôn nhân đều được xem xét là tài sản chung.
Nhiều người căn cứ vào thông tin người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định chế độ tài sản của vợ chồng, tuy nhiên điều này là không chính xác.
Bởi vì, căn cứ Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình, quyền sử dụng đất thuộc trường hợp sở hữu chung của vợ chồng thì không nhất thiết phải ghi tên cả hai vợ chồng trên giấy chứng nhận, mà sẽ tùy nghi theo thỏa thuận của vợ, chồng.
Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng, khi có tranh chấp, mà bên vợ, chồng đứng tên không có bằng chứng chứng minh đó là tài sản riêng, thì tòa án vẫn có thể xem xét đó là tài sản chung.
Chứng minh tài sản riêng vợ, chồng
Theo Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, những tài sản sẽ được nhìn nhận là tài sản riêng, nếu có bằng chứng chứng minh được đó là:
- Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
- Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định pháp luật, điển hình như: Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
- Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng;
- Tài sản riêng khác của vợ, chồng, bao gồm: Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Như vậy, nếu Quý khách không muốn phần tài sản riêng của mình bị trộn lẫn vào tài sản chung của hai vợ chồng hoặc có tranh chấp xảy ra, thì chỉ cần có bằng chứng chứng minh đó là tài sản riêng không phải là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là được.
PHAN LAW VIETNAM
Hotline: 0794.80.8888 – Email: info@phan.vn
Liên hệ Văn phòng Luật Sư