Hiểu đúng về di sản thừa kế
Chia di sản thừa kế chỉ đặt ra đối với những tài sản là di sản của người chết để lại. Do đó việc hiểu và xác định được những tài sản nào là di sản của người chết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Có những tranh chấp đến từ việc người ta không xác định đúng di sản thừa kế.
Ví dụ, bố mẹ sở hữu chung một căn nhà, nhưng khi người bố mất, những người con lại muốn chia thừa kế đối với toàn bộ căn nhà đó, thì yêu cầu này là không đúng. Bởi vì toàn bộ căn nhà không phải là di sản.
Như vậy, di sản là gì? Theo Điều 612 Bộ luật dân sự 2015, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Trong trường hợp ví dụ ở trên, do người mẹ vẫn còn sống, nên những người con chỉ mới được thừa kế đối với di sản mà người bố để lại mà thôi. Cũng có nghĩa là, lúc này họ chỉ được yêu cầu chia thừa kế đối với 50% giá trị căn nhà – vốn là tài sản thuộc sở hữu của người bố trước khi mất. Còn 50% giá trị căn nhà còn lại vẫn đang là tài sản thuộc sở hữu của riêng người mẹ, không phải là di sản để được chia.
Hiểu đúng về người thừa kế
Định nghĩa về người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Mặt khác, người thừa kế cũng có thể là tổ chức, pháp nhân, nhưng với điều kiện là tổ chức, pháp nhân đó phải được ghi nhận trong di chúc theo đúng quy định pháp luật về di chúc và phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có tài sản chết hoặc được tuyên bố là đã chết).
Người thừa kế có thể được xác định theo di chúc hoặc theo pháp luật
Có những người được ưu tiên đảm bảo quyền thừa kế, bao gồm:
– Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
– Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Điều đó có nghĩa là, đối với những đối tượng này, họ sẽ luôn được đảm bảo quyền nhận di sản mà không lệ thuộc vào nội dung di chúc, trừ trường hợp họ từ chối nhận di sản hoặc họ không có quyền hưởng di sản.
Theo đó, những người không có quyền hưởng di sản là những người:
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Lưu ý, những người này vẫn được chia di sản thừa kế, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của họ, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Chia di sản thừa kế có thời hiệu
Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân sự, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
- Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
- Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
Ngoài ra, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
PHAN LAW VIETNAM
Hotline: 0794.80.8888 – Email: info@phan.vn
Liên hệ Văn phòng Luật Sư