Hành vi môi giới hôn nhân là việc bên trung gian để các bên gặp gỡ, tiếp xúc, đàm phán và bắt đầu thiết lập các quan hệ của các bên nhằm mục đích để hưởng thù lao. Vậy với mục đích để hưởng thù lao như thế có vi phạm pháp luật hay không? Trường hợp nào bị coi là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật?
Xem thêm:
>> Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc cơ quan nào?
>> Đăng ký kết hôn khi không có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có được không?
>> Điều kiện thành lập trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Trường hợp nào bị coi là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật?
Trường hợp nào bị coi là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật?
Tại Điều 51 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định rằng: “Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi là Trung tâm) là đơn vị sự nghiệp thuộc Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Hội Liên hiệp phụ nữ)”.
Như vậy, Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài chính là một đơn vị sự nghiệp thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ. Pháp luật Việt Nam chỉ công nhận và cấp phép cho tổ chức hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu và tư vấn hôn nhân có yếu tố nước ngoài đó chính là Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Trường hợp bị coi là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật bao gồm:
- Không thực hiện tư vấn, hỗ trợ cho những người có yêu cầu về tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình mà có yếu tố nước ngoài;
- Tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận; đòi hỏi tiền bạc hoặc các lợi ích khác ngoài thù lao theo đúng quy định khi thực hiện hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình mà có yếu tố nước ngoài;
- Không giữ bí mật về các thông tin, về tư liệu về đời sống riêng tư, về bí mật cá nhân, về bí mật gia đình của các bên theo đúng quy định của pháp luật;
- Thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài khi chưa có giấy đăng ký hoạt động;
- Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích để mua bán người, để bóc lột sức lao động, để xâm phạm tình dục hoặc vì các mục đích trục lợi khác.
Nguyên tắc hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Tại Điều 52 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định về nguyên tắc hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, cụ thể là những nguyên tắc sau:
– Hoạt động của Trung tâm phải bảo đảm nguyên tắc phi lợi nhuận, góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
– Các bên kết hôn có quyền được tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Việc tư vấn, hỗ trợ không phụ thuộc vào quốc tịch, nơi cư trú của người có yêu cầu.
– Nghiêm cấm lợi dụng việc tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Trường hợp nào bị coi là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật?
Xử lý hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái luật?
Tuỳ thuộc vào mức độ, tính chất, mục đích, động cơ mà cá nhân, tổ chức thực hiện những hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái pháp luật sẽ bị xử lý vi phạm hành chính hoặc là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xử phạt hành chính
Tại Điều 39 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có quy định như sau:
– Nếu trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài không thực hiện tư vấn, hỗ trợ cho những người có yêu cầu về tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình mà có yếu tố nước ngoài thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng (điểm d khoản 1);
– Nếu trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thực hiện hoạt động tư vấn hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận; đòi hỏi tiền bạc hoặc các lợi ích khác ngoài thù lao theo đúng quy định khi thực hiện hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình mà có yếu tố nước ngoài; Nếu trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài không giữ bí mật về các thông tin, về tư liệu về đời sống riêng tư, về bí mật cá nhân, về bí mật gia đình của các bên theo đúng quy định của pháp luật thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (điểm c, d khoản 4);
– Thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài khi chưa có giấy đăng ký hoạt động; Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hoạt động tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích để mua bán người, để bóc lột sức lao động, để xâm phạm tình dục hoặc vì các mục đích trục lợi khác thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (khoản 5).
Ngoài ra, còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm a, b và c khoản 4, khoản 5 Điều này.” (điểm b khoản 7).
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Tại Điều 150 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định về tội mua bán người, cụ thể như sau:
“Điều 150. Tội mua bán người
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vì động cơ đê hèn;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;
d) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
đ) Đối với từ 02 người đến 05 người;
e) Phạm tội 02 lần trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
đ) Đối với 06 người trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Như vậy, theo Điều 59 quy định ở trên có 4 khung hình phạt gồm 3 khung hình phạt chính mà một khung hình phạt bổ sung. Nếu người nào thực hiện hành vi môi giới hôn nhân với người nước ngoài nhằm mục đích buôn bán người thì tùy vào từng mức độ mà áp dụng khung hình phạt tương ứng, mức phạt tù cao nhất có thể lên đến 20 năm tù. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
PHAN LAW VIETNAM
Hotline: 0794.80.8888 – Email: info@phan.vn
Liên hệ Văn phòng Luật Sư