Áp dụng luật phân chia tài sản thừa kế 2024
Luật phân chia tài sản thừa kế quy định: tài sản được phân chia dựa trên các nguyên tắc sau:
- Ý chí của người chết thể hiện ở di chúc;
- Theo thỏa thuận của những người thừa kế;
- Theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Về nguyên tắc, nếu có di chúc hợp pháp, việc phân chia tài sản thừa kế được thực hiện theo di chúc. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ, theo đó, có những người được thừa kế tài sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Họ vẫn được hưởng tài sản ít nhất bằng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp không có di chúc, những người thừa kế có thể thỏa thuận việc phân chia di sản của người chết và công chứng văn bản thỏa thuận tại văn phòng công chứng. Sau đó, tòa án có thể dựa trên văn bản thỏa thuận của những người thừa kế để phân chia tài sản.
Trường hợp người thừa kế không thỏa thuận được, tòa án sẽ căn cứ theo quy định pháp luật, phân chia tài sản thừa kế theo hàng thừa kế.
Luật phân chia tài sản thừa kế theo hàng thừa kế
Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định hàng thừa kế theo pháp luật bao gồm:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Theo đó, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần tài sản thừa kế bằng nhau. Người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Trường hợp hạn chế phân chia tài sản thừa kế
Tài sản thừa kế có thể được phân chia sau một thời hạn nhất định, dựa trên ý chí của người lập di chúc (nếu có di chúc hợp pháp) hoặc dựa trên thỏa thuận của tất cả những người thừa kế. Chỉ khi đã hết thời hạn đó thì tài sản mới được phân chia.
Theo đó, trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mà xét thấy việc chia tài sản thừa kế của người chết đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình, thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần tài sản mà những người thừa kế được hưởng, nhưng chưa cho chia trong một thời hạn nhất định, không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia tài sản thừa kế vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.
Theo hướng dẫn Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, việc chia tài sản thừa kế ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định được hiểu là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia tài sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất,…
Ví dụ: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 m2. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia tài sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này.
Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia tài sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con.
PHAN LAW VIETNAM
Hotline: 0794.80.8888
Email: info@phan.vn
Liên hệ Văn phòng Luật Sư